HÒA VĂN ĐÔNG BÀN
Làm thơ không chỉ tỏ bày Viết văn không để ngày sau luận bàn Trót mang mấy chữ sàn sàn Xin là hơi thở nồng nàn thương yêu Thơ văn tha thiết một điều Mong lòng Nhân Nghĩa ít nhiều trao nhau!. HÒA VĂN Trang Văn học - Nghệ thuật _ Chào các bạn! Email: h.vandientrung@gmail.com
15/10/2024
Văn Công Hoàng: Thướng nhớ lụa Mã Châu
05/03/2024
Thơ Hòa Văn: 𝚇𝙸𝙽 𝙲𝙷Ú𝚃 𝙳Ạ𝙸 𝙺𝙷Ờ
𝙰𝚒 đ𝚒 đ𝚒 𝚖𝚒ế𝚝 𝚔𝚑ô𝚗𝚐 𝚟ề 𝚡ó𝚖
𝙽𝚐ô𝚒 𝚗𝚑à 𝚡ư𝚊 𝚌ũ đổ𝚒 𝚌𝚑ủ 𝚛ồ𝚒
𝙽𝚑ư 𝚖â𝚢 𝚝ứ 𝚝á𝚗 𝚝𝚊𝚗 𝚟à 𝚑ợ𝚙
Đấ𝚝 𝚖ẹ 𝚋𝚊𝚘 𝚗ă𝚖 𝚐𝚒𝚊𝚗𝚐 𝚗ắ𝚗𝚐 𝚝𝚛ờ𝚒!
𝙽𝚐𝚑𝚎 𝚖ư𝚊 𝚛ả 𝚛í𝚌𝚑 𝚟𝚞𝚒 𝚌ù𝚗𝚐 𝚗ướ𝚌
𝙽𝚑ớ 𝚝𝚑𝚞ở 𝚌ở𝚒 𝚝𝚛𝚞ồ𝚗𝚐 𝚌𝚑ạ𝚢 𝚚𝚞𝚊𝚗𝚑 𝚜â𝚗
𝙲ô 𝚋é 𝚗𝚑à 𝚋ê𝚗 𝚕𝚎𝚗 𝚕é𝚗 𝚝ắ𝚖
Đô𝚒 𝚖ắ𝚝 𝚑ồ𝚗 𝚗𝚑𝚒ê𝚗 𝚐ọ𝚒 𝚋â𝚗𝚐 𝚔𝚑𝚞â𝚗𝚐
𝙻ớ𝚗 𝚕ê𝚗 𝚛𝚊 𝚙𝚑ố 𝚚𝚞ê𝚗 𝚑𝚊𝚢 𝚗𝚑ớ...
𝚇ó𝚖 𝚗𝚑ỏ 𝚛ộ𝚗𝚐 𝚕ò𝚗𝚐 𝚗𝚞ô𝚒 𝚝𝚞ổ𝚒 𝚝𝚑ơ
𝚅ẫ𝚗 𝚋𝚒ế𝚝 𝚝ì𝚗𝚑 𝚢ê𝚞 𝚗𝚊𝚢 đổ𝚒 𝚔𝚑á𝚌
𝚇𝚒𝚗 𝚌𝚑ú𝚝 𝚍ạ𝚒 𝚔𝚑ờ 𝚝𝚛𝚘𝚗𝚐 𝚐𝚒ấ𝚌 𝚖ơ!.
𝙷Ò𝙰 𝚅Ă𝙽
04/01/2024
Quảng Nam có nhiều món mắm cho dù mang nó đến bất kể vùng miền nào
không lẫn vào đâu được. Đó là nắm cá cơm than, mắm cá nục, mắm cá thính...Tính đặc trưng của từng loại đã thành đặc sản, đến nay ai cũng biết, nếu không
nói là đã từng thưởng thức và tấm tắc khen ngon.
Ở đây xin giới thiệu một món ăn, một thời có mặt tại làng Xuân Đài (nay thuộc xã Điện Quang, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).
Một dịp đến thăm bác Văn Đức Đổng (năm 2012 đã trên 80 tuổi), người làng Xuân Đài, trong buổi trò chuyện, bác nhắc đến thân mẫu của bác về tài chế biến các món ăn dân dã và phù hợp với đồng tiền bát gạo ở nông thôn những năm 1940 – 1965. Một trong món ăn mà bác nói ngon, ngon lắm là Mắm cá chuồn bột.
Độ khoảng tháng Ba âm lịch, khi con tu hú kêu rân tu hú tu hú... đó là báo hiệu mùa cá chuồn đang rộ.
Biển cửa Đợi, Hội An nơi từ lâu nổi tiếng luôn luôn có nhiều loại cá biển mà lúc nào cũng tươi và ngon như cá ngừ, cá nục, cá thu, cá sòng, cá chuồn... Lúc nầy dù có bận bịu công việc gì, người làng Xuân Đài cũng dàn xếp, rủ nhau mướn ghe bầu đi Cửa Đại mua cả chuồn. Đặc điểm quan trọng cần lưu ý, nếu mua cá chuồn về làm mắm thì có bị ươn cũng không sao, nhưng để làm cá chuồn bột nhất định phải chọn loại cá trộng con và tươi xanh mới được.
Cá chuồn làm ruột rửa sạch, vớt ra để ráo nước, cắt bỏ đầu cá, sau đó bỏ cá vào hũ sành (không được muối vào hũ đất), muối giống như muối cá cơm than hoặc cá nục. Muối dùng là loại muối hạt to, trắng. Nếu có được muối Cà Ná mua để dành vài ba năm, nay đem ra dùng càng tốt vì loại muối cũ nầy để lâu mất dần chất đắng thường có trong muối ăn. chỉ còn vị mặn tinh khiết, muối mắm càng ngon. Lượng muối theo kinh nghiệm (ba cá một muối), cứ một lớp cá vừa vừa không dày không mỏng rải một lớp muối. Việc muối cá phải nhanh gọn để tránh ruồi bâu vào dễ sinh con dòi trong hũ mắm. Cuối cùng dùng miếng vải dày bịt kín miệng hũ lại, xong đem hũ mắm vừa muối ra nơi có nắng cả ngày phơi liên tục suốt ngày đêm khoảng bốn, năm tháng, đến cỡ tháng Chín, tháng Mười âm lịch cùng năm, xử dụng được. Có một công đoạn để có tên mắm cá chuồn bột phải làm trước khi ăn, là dùng đũa vớt hết xương cá chuồn ra, sau đó ấy đũa bản to (thường hay gọi là đũa bếp), khuấy hũ mắm làm cho toàn bộ phần thân cá chuồn tơi nát ra thành bột màu đỏ sậm, đặc sánh.
Trước đó khoảng tháng Năm tháng Sáu tới mùa thơm (dứa) trồng quanh vườn nhà chín rộ, chọn thời điểm trời tạnh ráo, chọn những quả dứa ngon, gọt sạch vỏ, cắt ra từng khoanh dày độ ba phân, xâu lại thành từng xâu, đem treo phơi nắng tốt cho khô. Đây là phụ gia để bỏ vào hũ mắm cá bột thành phẩm, làm cho mắm dịu bớt độ mặn thêm ngon ngọt, những khoanh thơm ấy
sau khi thấm thóp mắm ăn ngon đáo để.
Khi kể chuyện làm mắm cá chuôn bột. Hai mắt bác Đổng mãi chớp chớp như chực khóc. Bác nói: “Kể chuyện muối mắm tôi nhớ mẹ tôi quá quý anh ạ!”. Còn những người ngồi nghe chuyện, lại chim chíp miệng. Tôi nói chen vào: "Nghe bác Đổng diễn tả cách làm mắm cá chuộn bột, thật công phu và tỉ mỉ, ai cũng phát thèm!”. Bác Đổng kết luận, những ngày mùa đông giá lạnh, những khi không đi chợ, lúc bão lụt, đến bữa cơm, dùng giá múc mắm cá bột vào chén thêm gia vị tỏi, ớt, mắm có hương vị rất thơm. Khi ăn mỗi người tự dùng đũa quẹt từng quẹt mắm nho nhỏ cho vào chén cơm nóng hổi, mà ăn thật ngon.
Ngoài ra khi cuốn bánh tráng thịt heo, bánh xèo (đặc sản Quảng Nam), mắm
cá chuồn bột được pha chế thêm một ít nước mắm nhỉ, trở thành nước chấm ngon khỏi chê!
Nếu làm đúng cách, hợp vệ sinh mắm cá chuồn bột có thể để dành ăn quanh năm.
Hòa Văn
(2012)
31/12/2023
30/12/2023
Thơ Nguyễn Văn Gia: LÊN CHÙA
Xa lắc rồi
niết bàn
Buổi thiền sư
mang gươm
Vô thường
bỗng bất thường
Niệm niệm
tâm bất an.
LÊN CHÙA
Lên chùa tìm chút thảnh thơi
Ai dè
chùa cũng như… đời ngoài kia
Cũng thứ hạng
cũng phân chia
Chỗ này vô nhiễm
chỗ kia thị trường
Đành rằng tất cả vô thường
Thôi ta về lại phố phường
ẩn tu.
Ở MỘT NƠI
CHÙA KHÔNG CÓ PHẬT
Đã hơn hai nghìn năm trăm năm
Mắt Đức Phật vẫn khép hờ
với nụ cười bí ẩn
Thượng sầu hạ hỉ
Sao niềm vui trốn biệt nơi đâu…
Trong nhà đầy báu vật (1)
Chẳng cần tìm đâu xa
Đừng mất công tìm Phật
Thế Tôn tại lòng ta
Chùa xây trăm nghìn tỷ
Tượng ngọc tượng vàng
Võng lọng xa hoa…
Những thứ mà Thái tử Tất-đạt-đa
đã ngày xưa từ bỏ
Đã lâu không đến chùa
Bởi lòng kính ngưỡng tăng ni nhạt phai
Lòng tin bị đánh tráo
Không còn ngồi dưới hiên chùa xưa
Bình yên ngắm đám mây trôi
Lòng ngậm ngùi cái lẽ vô thường của đất trời
Tai không còn nghe
tiếng chuông sớm chuông chiều
ngân nga hồn dân tộc…
Lên chùa
với nén tâm nhang
Tam quan mách bảo
Phật đang vắng nhà
Trở về phụng dưỡng mẹ cha
Dẫu không thờ Phật
cũng là quy y
Chốn thanh tịnh trang nghiêm
Ai bày ra ồn ào lễ hội
Cầu lợi cầu danh
Buôn thần bán thánh
Chẳng thấy đâu các bậc chân tu
Chỉ thấy tràn lan những thầy bói thầy cúng
Rộn rịp dâng sao giải hạn
Thỉnh vong oan gia trái chủ
Xưa “Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật” (2)
Nay bọn giả sư hành tung như thảo khấu
Mắt Đức Phật vẫn khép hờ
với nụ cười bí ẩn
Hơn hai ngàn năm trăm năm
Giữa muôn trùng vây
và vô vàn kiếp nạn
Nơi góc biển đầu non
Vẫn sáng soi
vầng trăng chánh pháp
Những bậc chân tu ẩn mình đâu đó
Không đủ phước duyên chẳng dễ gì gặp được
Buồn thay!
Nguyễn Văn Gia
_____
(1) “Gia trung hữu fbảo hưu tầm mịch” (Trần Nhân Tông)
(2) “Buông con dao đồ tể xuống, đứng ngay đó mà thành Phật"
26/12/2023
Thơ Hòa Văn: TRÙNG KHƠI
𝙱𝚒ể𝚗 𝚡𝚊 𝚛𝚞 𝚖ã𝚒 𝚕ờ𝚒 𝚝𝚑ươ𝚗𝚐
𝚈ê𝚞 𝚊𝚒 𝚋ỏ 𝚡ứ 𝚟ề 𝚟ươ𝚗𝚐 𝚌á𝚝 𝚖ề𝚖
𝚃ơ 𝚝𝚛ờ𝚒 𝚝ừ𝚗𝚐 𝚐𝚒ọ𝚝 𝚜ươ𝚗𝚐 đê𝚖
𝚃𝚛ă𝚗𝚐 𝚖ờ 𝚜ó𝚗𝚐 𝚍ộ𝚒 𝚖ộ𝚝 𝚖𝚒ề𝚗 𝚗𝚑ớ 𝚗𝚑𝚞𝚗𝚐
𝙷ỏ𝚒 𝚖ê𝚗𝚑 𝚖ô𝚗𝚐 ơ𝚒 𝚕ạ𝚗𝚑 𝚕ù𝚗𝚐
𝚃𝚛ă𝚖 𝚗ă𝚖 𝚖𝚞ố𝚒 𝚖ặ𝚗 𝚝𝚛ù𝚗𝚐 𝚙𝚑ù𝚗𝚐 𝚋𝚒ể𝚗 𝚔𝚑ơ𝚒...
𝙼ộ𝚝 đờ𝚒 𝚟ơ𝚒 đầ𝚢, đầ𝚢 𝚟ơ𝚒
𝙺𝚑ô𝚗𝚐 𝚡𝚊 𝚗𝚐𝚞ồ𝚗 𝚌ộ𝚒 𝚕à 𝚗ơ𝚒 𝚝ì𝚖 𝚟ề !.
Hòa Văn
23/12/2023
17/12/2023
HÒA VĂN: BÕ...
24/11/2023
Đặng Tiến: 𝕋𝕌Ệ 𝕊Ỹ, Đ𝕀Ệℙ 𝕂ℍÚℂ 𝔻ƯƠℕ𝔾 𝕋ℝẦℕ
Trước đây, mạng Diễn Đàn có giới thiệu tập thơ song ngữ Những điệp khúc cho dương cầm – Refrains pour piano – của Tuệ Sĩ, do bà Dominique de Miscault dịch ra tiếng Pháp, và minh họa trang nhã. Lúc đó, tác phẩm vừa mới in xong.
Hôm nay, tập thơ đã được phát hành và ra mắt dưới dạng một buổi tọa đàm tại Thành Phố Hồ Chí Minh, khách sạn Legend, ngày 27-9-2009, với sự hiện diện của tác giả và dịch giả.
Ngoài ra, chúng tôi được biết sách hiện có bày bán nhiều nơi tại Paris, giá 10 €uros.
Vậy xin trở lại, giới thiệu thi phẩm căn cơ hơn :
Tuệ Sĩ là bậc danh sĩ cao tăng, đã trọng nhiệm nhiều chức vụ trong hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam. Trong và ngoài nước nhiều người biết danh và ái mộ, qua những trầm luân mà ông chịu đựng non nửa thế kỷ, chúng tôi không nhắc lại nơi đây, vì ai muốn truy tìm thì rất dễ.
Tuệ Sĩ còn là nhà thơ, nhiều người biết danh, nhưng ít người được đọc, vì thơ ông ít được phổ biến. Mới đây, trong nước, nhà xuất bản Phương Đông đã ấn hành tập thơ Những điệp khúc cho dương cầm, song ngữ Việt-Pháp đối chiếu, do Dominique de Miscault, nữ họa sĩ người Pháp, chuyển ngữ và trình bày, minh họa, bà gọi là « biểu cảm đồ họa » (expressions graphiques). Trang bên trái là văn bản Việt-Pháp nối tiếp, trang bên phải là hình cách điệu nhà sư đang lướt ngón tay trên phía dương cầm.
Sách gồm 23 bài thơ ngắn, trình bày trên 53 trang, khổ vuông 21 x 21 cm, giấy tốt, in đẹp và trình bày trang nhã.
Điều đáng mừng là độc giả Việt Nam và thế giới có dịp tiếp cận với thơ Tuệ Sĩ, trong niềm đồng cảm nhân loại, qua thi ca và nghệ thuật. Trong lời tựa, bà De Miscault kể lại :
« Tôi được hạnh ngộ với Tuệ Sĩ và người thân từ mùa xuân 2003.
Chúng tôi đã học tập phơi trải và trao đổi hai thế giới, diễn dịch những cảm xúc, đồng thời là dấn thân. Tôi không phải phật tử cũng không phải kẻ tu hành, lại không biết tiếng Việt, nhưng thơ Tuệ Sĩ thì đã gặp đâu đó tại châu Âu già cỗi. Đó chẳng phải là những khoảng hư không mà các tác gia thần bí đã trải nghiệm ? Kinh nghiệm phiêu du trong bóng đêm và tĩnh lặng, cũng như những tâm hồn khắc khoải, vô vọng truy tầm lời giải đáp cho những hy sinh, dù tự nguyện hay cưỡng chế ? »
Bà tiếp xúc với thơ Tuệ Sĩ nhờ việc lược dịch của một người Pháp được Tuệ Sĩ duyệt lại.
« Tôi cố gắng nắm bắt nội dung qua những hình ảnh, và không gian sống của Tuệ Sĩ như tôi được trông thấy và đã khai thị cho tôi. Tôi chọn những từ ngữ và ảnh tượng đơn giản nhất, đã giản lược và tát cạn tối đa thi pháp để tập trung vào cuộc phiêu lưu thần bí của nhà sư mệt mỏi vì đời sống và những truy tầm vô vọng…
Vô vọng hay không, vẫn là câu hỏi. Buông thả theo dòng đời.
Dương cầm và tịch lặng là thần giao giữa hai lục địa giữa chúng tôi.
Nơi đây không còn là hoài cảm hay xúc cảm, mà là phân tích khô khan cõi dửng dưng.
Tôi hân hoan được tiếp tục chia sẻ, và trong dài lâu tính nhẹ nhàng tuyệt đối của đời sống. »
Bài tựa này đã được Hạnh Viên dịch ở trang 7, tôi dịch lại để đóng góp.
Một cơ duyên khác, là với kỹ thuật điện tử hiện đại, toàn bộ công trình của TS – Dominique de Miscault và nhà xuất bản Phương Đông được đưa lên lưới, để người đọc, Việt hay ngoại quốc, khắp năm châu bốn biển đều có thể thưởng lãm. Năm mươi trang giấy không phải là công trình to tát gì, nội dung cũng không phải chuyện khai sơn phá thạch, nhưng là một sự kiện văn học, như cơn gió bất ngờ đưa đóa lan rừng ra ánh sáng.
Tuệ Sĩ không phải là người tìm danh vọng, nhất là bằng thi ca. Ông không tìm độc giả, tìm tri kỷ, tri âm. Ông thừa nội lực để sống an nhiên trong tịch lặng giữa cõi ta bà. Nhưng thơ ông xuất hiện như vầng trăng ra khỏi đám mây, như mùi hương bông sứ chợt thoảng vào vườn khuya, là một niềm vui chung, và cho người lữ khách ngồi lại bên đường, buổi chiều, « cười với nắng một ngày sao chóng thế… đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan », câu thơ ngày xưa của ông mà Bùi Giáng hết lời ca ngợi.
Thơ, thơ gì đi nữa, thì trước tiên phải là ngôn ngữ. Ngôn ngữ của ai đi nữa thì cũng mang sử tính. Thơ thiền sư làm bằng ngôn ngữ hàng ngày vẫn vang âm xã hội và lịch sử.
Ví dụ bài cuối :
Giăng mộ cổ
Mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
Huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
Làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
Yêu suốt cõi hoang sơ.
Ý nghĩa chính xác của bài thơ là gì ta không nên giải thích chân phương. Nhưng từ ngữ thì rõ ràng là trầm tích đau thương của con người trong lịch sử. Bà De Miscault dịch hay và thoát (xem Trên kệ sách của mạng Da màu). Tôi vẫn táy máy dịch lại xem như góp một nốt đàn vào bản hợp tấu :
Sur les tombes antiques
La pluie du soir se confond en larmes
Des mythes illusoires
En ruine esseulés,
La bruine givre
Les épaules meurtries de laurier
Serrant la statue
J’aime ô que j’aime les espaces innocents
Trầm tích lịch sử còn dư vang rõ hơn trong bài này ;
Ngoài biên cương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương
Tr. 34
A la frontière
Le grand arbre rougeoie
Le soldat vieillit sur la tombe antique
Le soleil éteint la bataille
Le sang se condense en rosée.
Thơ gì, thơ ai, thơ nước nào, trong ngôn ngữ vẫn là một thứ ngoại ngữ ; người đọc một bài thơ trong tiếng mẹ đẻ là đã dịch bài thơ ấy ra ngôn ngữ của riêng mình. Gọi là tiếng lòng.
Trong nghề dạy học và việc bình luận văn chương tôi có đôi kinh nghiệm về việc dịch thuật và thông ngôn này. Gặp những bài thơ Tuệ Sĩ việc giảng luận có phần trắc trở. Ngôn ngữ vẫn là ngôn ngữ chung là tiếng Việt, nhưng tương quan giữa người nói và lời nói thì khác nhau. Khi Tuệ Sĩ viết đâu đó « Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang » thì ông không chỉ nói về màu áo, cũng không nói về ngọn đồi, mà phản ánh tâm linh trong một thế giới khác. Đưa lời thơ Tuệ Sĩ vào ngôn ngữ thế tục e dễ thành dung tục.
Thơ bao giờ cũng phản ánh ba tính cách : môi trường xã hội trong lịch sử ; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại ; và tác giả, qua đời sống hàng ngày ; nhưng ở Tuệ Sĩ đời sống hằng ngày, ý thức và vô thức dường như đã thăng hoa, thành một siêu thức. Ngôn ngữ do đó cũng siêu thoát, khó bề lý giải chân phưong và đơn phương.
Đầu thế kỷ XX giới văn học tây phương đưa ra khái niệm « thơ thuần túy », và nghệ thuật nguyên chất theo nghĩa của hóa học : thực thể nguyên chất đối lập với những thực thể tạp chất « impur », có lẫn lộn nhiều ngoại tố. Nghệ thuật nguyên chất là kiến trúc của ngôn ngữ : một dạo khúc dương cầm, một tranh tĩnh vật, một bài thơ đẹp. Người thưởng thức không pha lẫn vào đó những kỷ niệm, buồn vui riêng tư, nhất là những thành kiến lịch sử, chính trị. Yêu một chân dung phụ nữ không phải vì nó hao hao giống một người bạn cũ.
Trong nghệ thuật, dân tộc là một tạp chất.
Tôi nghĩ khi Tuệ Sĩ đặt tên Những điệp khúc cho dương cầm, và làm những bài thơ mô tả tiếng dương cầm, là ông muốn cho tiếng thơ mình trong trẻo, thuần khiết « trong như tiếng hạc bay qua ». Do đó, bình giải thơ Tuệ Sĩ là tạo cơ nguy gây tạp âm không phải lẽ và không phải lúc. Bài viết này vẫn mang tạp âm là ngoài ý muốn của chúng tôi.
Lấy một ví dụ ngoài đề, cho thông thoáng. Nhà thơ Phạm công Thiện, thời trẻ, có lúc tu tại một Phật Viện Nha Trang. Một hôm anh về chơi với nhà văn Võ Hồng, ở lại mấy hôm, khi về Chùa, anh có thơ :
Mưa chiều thứ bảy, tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông.
Anh tâm đắc thường đọc cho chúng tôi nghe, và chúng tôi hiểu đại khái, nhưng chưng hửng khi nghe Phạm Công Thiện, mười năm sau, tự dịch câu thơ ra tiếng Pháp :
Je suis le Retour
Il fait Tard sur le Chemin
Sept jours après la pluie tombe
En haut
du Temple
L’arbre est le
Défleuri
Chúng tôi đã hiểu chung chung : thứ bảy là trước chủ nhật, cây khế là cây khế, ngọn đồi là ngọn đồi, nhưng qua bản dịch tiếng Pháp, thì nội hàm câu thơ không phải chỉ có vậy.
Nhưng nghĩ cho cùng, ai làm sao hiểu hết một câu thơ, kể cả tác giả ?
Và cách tiếp cận thơ Tuệ Sĩ của bà De Miscault biết đâu là cách hay nhất, như câu tiếng Pháp không biết của ai « la voix du cœur est la voie au cœur » : lời trái tim là lối đến con tim.
Đọc thơ Tuệ Sĩ. Bằng trái tim. Nỗi Nhớ
Màu tối mù lan vách đá
Nhớ mênh mông đôi mắt giã từ
Rồi đi biệt
Để hờn trên đỉnh gíó
Ta ở đâu ?
Cánh mộng phù du
Tr. 18
Les ténèbres envahissant les pierres du mur
Immense le souvenir des regards de nos adieux
Et je m’en vais à jamais
Délaissant les chagrins aux cimes de l’ouragan
Où suis-je ?
Frêles sont les ailes de l’éphémère
Tình người :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói,
Vẫn yêu người từ khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một lời không nói
Nhưng trùng dương ngưng đọng cánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói bắt trời sao.
Tr. 50
Sur mes chagrins enfumés, je revis
L’Amour des hommes à chaque instant de mes songes
Dès l’origine la parole a été retenue
Comme l’océan retient le reflet du printemps en fleur
Des refrains animent mes ailes épuisées
Pour l’Homme, j’ouvre mes mains au firmament étoilé
Trần thế :
Theo chân kiến
Luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u
Thế giới chập chùng
Quãng im lặng
Nghe mùi đất thở
Tr. 46
Traces de fourmi
Je faufile entre les herbes
Ténèbres des ténèbres
Les mondes s’amoncellent
Silences entre silences
J’accueille la terre respirante.
Thơ Tuệ Sĩ cô đúc, hàm súc, uyên áo. Người đọc không quen cho là khó hiểu, vì tác giả không đề cập đến một đề tài nào chính xác, không miêu tả không tự sự. Ngôn ngữ lấp lánh ánh sáng tâm cảm và ngoại giới, trầm tư và huyễn mộng. Hình ảnh chập chờn, ngôn từ lảo đảo, như những tiếng dương cầm đuổi bắt nhau, chưa kịp tương phùng đã muôn đời vĩnh quyết.
Thỉnh thoảng, người đọc cảm thấy an tâm trong đôi lời thơ mạch lạc :
Cửa kín chòm mây cuốn nẻo xa
Ngu ngơ đếm chữ, mắt hoa nhòa
Tay buồn vuốt mãi tờ hương rã
Phảng phất mưa qua mấy cụm nhà
Tr. 26
Người Thơ hé mở một thoáng tâm linh, nhưng hình ảnh vẫn mang tính cách tượng trưng, xa cách, xóa nhòa tâm sự cá nhân, pha loãng tình riêng vào làn mưa trên mái ngói.
Đôi khi người đọc gặp vài từ ngữ, ẩn dụ trở đi trở lại như những ám ảnh, tạo nên dăm viên đá cuội trên lộ trình cậu bé tí hon, nhưng dễ gì tìm được heo hút đường về.
Ngoại giới biết đâu là ảo giác :
Bóng sao đêm dài vời vợi
Thật hay hư, chiều nhỏ ưu phiền
Tr. 10
Và thơ, tập thơ mình cầm trong tay, những nốt nhạc, những hàng chữ « đen trắng đuổi nhau thảnh ảo tượng ». Thơ, tất cả thi ca trên cõi trần này biết đâu chẳng là ảo giác của ảo giác ?
Cần gì để nói thêm về Những điệp khúc cho Dương cầm của Tuệ Sĩ ?.
Phải chăng là tiếng ve sầu chung thủy, ưu hoài những mùa hạ đã ra đi ?.
Tiếng ve trở về,
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương
Đặng Tiến,
Orleans 17/8/2009.
Cập nhật 02-10-2009
Nguồn: diendan.org