01/06/2025

Liêu Thái: Ở QUÊ CÓ THẤY HỒN QUÊ?

Ở quê giờ chẳng còn mấy gì để khoe với phố, ở quê không còn trái duối dại, chẳng còn trái trâm, trái mây, ngay cả cây ổi sẻ cũng đã lai giống siêu trái... Cây đa, giếng làng, bụi tre, bến nước cũng mất dấu từ lâu, mọi sinh hoạt mang hồn quê kiểng cũng dần phai nhạt... Không chừng, bạn thấy trống rỗng. Mọi thứ tưởng chừng không còn gì. Nhưng, còn đó, còn nhiều lắm! Sáng nay, trong quán cóc đầu làng, một người khách ngoài thành phố về, ghé ngang, hỏi chủ quán có làm lúa không, có cúng cơm gạo mới không, chủ quán trả lời rằng tập tục ấy ở quê đã bỏ từ lâu. Vị khách ngồi trầm ngâm một lúc, chừng như ông ấy đang tiếc nuối một điều gì... Với tôi, tôi cảm nhận được nỗi lòng của cả người hỏi và người trả lời. Người hỏi thì tiếc, hụt hẫng, còn người trả lời thật thà bởi họ quá mệt mỏi. Trong thời đại mà mọi thứ đều phì đại, con người bị cuốn vào vòng xoáy đời sống, liên tục, mải miết, loay hoay kiếm tiền, đến khi hữu sự thì chỉ có tiền là giải quyết, ngày cúng kính, giỗ chạp, cũng phải gọi bia, gọi dịch vụ nấu cho ra dáng trịnh trọng mà kỳ thực, cái "dáng trịnh trọng" ấy lại vô hồn, mệt mỏi và tốn kém. Chính vì mệt mỏi, người ta sẽ giản lược bớt được thứ nào hay thứ ấy. Ngày xưa người nhà nông trông chờ vào cơn mưa, ngọn nắng và thời tiết, mọi thứ gắn liền Thiên - Địa - Nhân, nên lòng biết ơn Trời Đất được gửi gắm, ký thác qua mâm cúng cơm mới sau mùa thu hoạch. Còn bây giờ, không lẽ cúng tạ ông Tàu đã nhập thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, cúng tạ ông thủy lợi đã đổ nước hay sao?! Thế giới vật dục đã chiếm mất những phần niềm tin còn sót lại nơi con người. Ngay cả lũy tre làng hay cây đa, giếng nước nơi ngã ba, người ta nhìn thấy ở đó một lô góc, có thể kinh doanh, có thể xem là đất vàng, còn cây tre trong vườn, mỗi năm thu hoạch không tới vài triệu đồng, giá mỗi cây tre người ta mua chừng hai chục ngàn đồng, giá măng luộc mỗi búp chưa đầy ba chục ngàn đồng, cả một vườn tre lớn có khi bán không tới hai triệu trên một năm. Thợ tre thì đã già và chết hết rồi! Người ta nghĩ rằng nếu ủi cái bụi tre đi, biến nó thành một lô đất làm nhà thì có tiền tỉ. Người ta biết làm gì để thay đổi số phận ngoài việc cắt bớt đất để bán! Bán cho con ăn học, đổi đời, bán để mua chiếc xe mà chạy, bán để có chút tiền giằng túi, bán để có chút tiền sắm chút vàng, cho con dựng vợ, gả chồng... Những lũy tre làng mất dần do cái "thấy" từ vĩ mô đến từng gia đình. Mọi thứ ở chốn quê mất dần, may sao cau có giá, làng quê giờ có những vườn cau đẹp. Nhưng cũng đừng quên rằng năm nào cau không xuất khẩu sang Trung Quốc thì người ta phải nghĩ đến chuyện chặt bỏ cây cau vì kiến và đói. Có một thứ bất cập là Việt Nam không có đầu ra cho cây tre quê, không có đầu ra cho cây cau nếu như Trung Quốc không "ăn hàng". Giả sử nền kinh tế Việt Nam chọn Mỹ hoàn toàn thì chắc chắn hai loại sản phẩm tre, cau và có thể sau này là sen sẽ nhanh chóng mất dấu. Vì tại Mỹ không có kĩ nghệ làm kẹo cau hay làm các sản phẩm từ tre, hạt sen như Trung Quốc. Một bài toán đau đầu đối với nông nghiệp mang chất quê củi, với cái "hồn quê" xứ Việt. Nói dông dài, từ chuyện này sang chuyện khác mất rồi, ý tôi muốn nói đến cái tình quê, hồn quê. Thực ra, bây giờ vẫn còn đậm đà lắm, có những thứ mà con người có làm ra cả ngàn tỉ vẫn chưa chắc có được. Bởi tiền có thể làm ra, nhưng thứ ấy không mua được bằng tiền. Gia đình tôi có cái may mắn này, tôi vẫn sống với đầy đủ nó - Tình Quê. Ở quê, khi có miếng mít, trái chanh, trái xoài, nải chuối, ký gạo mới hay lá mì, cái bánh ú, cái bánh chưng, chục trứng gà... Người thân, bà con, hàng xóm hay cho/tặng/biếu nhau. Điều ấy như một niềm vui của cả người cho và người nhận. Tôi có ông cậu, cứ mỗi lần mít chín là ông nhớ tới nhà tôi, tôi có ba người dì, ba ông dượng, cứ mỗi lần có dầu phụng mới, gạo mới, nếp mới hay cái bánh ú, bánh chưng, bánh rò... là cho gia đình tôi một ít. Và những lúc cầm các thức quà của họ cho, vợ chồng tôi hay nói vui với nhau "giờ bỏ ra vài chỉ vàng cũng không mua được mấy cái này. Thậm chí có tiền tỉ mua cũng không có". Bởi bên trong cái bánh hay thức quà là sức nặng không thể đo lường, định dạng của Tình Quê, của tình cảm người dành cho người. Sống ở quê, đương nhiên ai cũng bươn bả, bon chen để có đồng bạc mà trang trải. Thế nhưng có những thứ không bao giờ mua được bằng tiền. Như mấy cái bánh ú mồng năm của ông dượng tôi đã gói. Thay vì mua bánh ú tro chỉ tốn hai mươi lăm ngàn đồng một chục, ông mua nếp, hái lá, ngồi hí hoáy gói bánh, nấu bánh, cúng Gia Tiên xong thì mang cho con cháu mỗi đứa vài cái... Những cái bánh ấy không thể định giá bằng tiền hay bằng bất cứ thứ vật chất nào! Và chất nếp dẽo, thơm của cái bánh quê như một loại keo dán gắn tâm hồn trẻ nít vào quê hương. Thiếu nó, người ta sẽ ít có khái niệm về quê hương hay bà con, làng xóm hơn. Bởi những thứ keo dán tuổi thơ bằng Tình Quê đeo đẳng và theo con người cho đến khi ngừng thở. Không phải vô duyên vô cớ mà nhiều người già, đến khi gần qua đời lại thèm ăn một món ăn nào đó có gắn với tuổi thơ tươi đẹp và đáng nhớ của họ. Và trong hàng trăm thứ đã bị kĩ nghệ hóa, bị biến thành loại sản phẩm du lịch hay thứ gì đó mang hơi hướm thực dụng, thì chỉ có Tình Quê, Hồn Quê là không hề suy suyễn, và nó có chỗ đứng, đất sống riêng. Ps': Quà quê trưa nay, chuối mốc, gạo mới, bánh ú của dượng nấu, dì cho...

30/05/2025

Hoàng Mai: LÁ MỒNG 5 LÀ LÁ GÌ?

Lá mùng 5 là lá gì? Chúng có tác dụng gì mà người người, nhà nhà đua nhau săn lùng dịp Tết Đoan Ngọ?
Theo dân gian, bất cứ loại lá nào hái đúng vào giờ Ngọ ngày 5/5 âm lịch đều được xem là lá thuốc. Lá mùng 5 gồm những gì? Theo dân gian, bất cứ loại lá nào hái đúng vào giờ Ngọ ngày 5/5 âm lịch đều được xem là lá thuốc. Nhưng trên thực tế, người ta chỉ quen hái một số lá nhất định ở các vùng rừng núi hoặc trồng tại nhà, đó bao gồm các loại lá như tía tô, bầu đường, rẻ quạt, ngải cứu, mã đề, đinh lăng, hóc hương, đại tướng quân, ngũ gia bì, dủ dẻ, dây chiều, lá bướm, sim, lá mơ, lá bạc thau, lá ổi, lá lốt, lá bạc hà… Mỗi loại lá có công dụng khác nhau hoặc có thể kết hợp dùng như một bài thuốc nam, là tổng hợp các loại thảo dược đặc hữu có mùi thơm ngát, tác dụng thanh nhiệt, mát gan, bổ huyết, an thần, lợi tiểu, ăn ngon ngủ ngon... Nhìn chung, lá mùng 5 là tổng hợp những loại lá đặc trưng phát triển mạnh vào thời điểm này và theo quan niệm dân gian chỉ có lá bán vào dịp Tết Đoan Ngọ là có khả năng như một loại thuốc hữu hiệu nhất. Vào dịp Tết Đoan Ngọ (mùng 5.5 âm lịch), người dân xứ Quảng lại hồ hởi cùng nhau vào rừng hái lá uống. Đối với người dân nơi đây, mùng 5 chỉ trọn vẹn khi được tự tay hái lá uống và được thưởng thức những ngụm nước thơm mát này Gọi là lá mùng 5 vì chính vào dịp này, từ chợ cho đến khắp các ngả đường, dễ dàng thấy những bó lá mọi hương vị được bày bán. Nước lá mùng 5 khi đó sẽ là tổng hợp hương hoa, mùi cây lá thuốc nam, bao gồm cả vị đắng, chát, mùi thơm hòa quyện vào nhau. Theo khảo sát của Phòng Kinh tế TP.Hội An, bộ thực vật được sử dụng làm lá mùng 5 có ít nhất 87 loài. Trong đó đã giám định được 83 loài, 4 loài chưa giám định có tên địa phương là Chè núi, Dây lăng, Dây pháo và Đột nốt. Nhìn chung, phải là người am hiểu các loại lá cây, bài thuốc nam mới có thể đi hái, phân biệt vị, mùi thuốc chứ tay ngang không biết gì rất khó đi hái, có khi lại hái trúng lá độc. Cách sử dụng lá mùng 5 Hái lá uống mùng 5/5 âm lịch là một nét văn hóa, truyền thống lâu đời của người dân xứ Quảng và cho đến nay, cứ đến dịp này có người trồng ở nhà rồi đem bán, nhưng nhiều nhất vẫn là hái trong tự nhiên. Họ quan niệm rằng lá uống mùng 5 phải được tự tay đi hái vào giờ Ngọ thì mới linh nghiệm và có nhiều vị thuốc. Lá được hái, phơi vào ngày này sẽ rất thơm và mới có tác dụng chữa bệnh, nếu không cũng chỉ là một loại nước uống thông thường. Tuy nhiên, hiện nay vì mục đích kinh doanh nên người ta không còn hái đúng ngày nữa, từ trước đó mấy ngày, vào cuối tháng 4 âm lịch, hoặc nửa tháng 4, người ta đã lên các vùng rừng núi Quảng Nam, Quảng Ngãi, có khi ra tận đèo Hải Vân để hái cho bằng được các loại thuốc quý này để mang đi chợ bán phục vụ nhu cầu đông đảo của người dân. Đối với những ai làm nghề trồng lá mùng 5 tại nhà lại thường bắt đầu vào vụ gieo trồng từ đầu tháng giêng, sau đó họ chăm sóc, đến tháng 4 thu hoạch. Nguồn giống các loại cây mùng 5 này được dân làng trồng và giữ lại bao đời nay. Nghề trồng lá mùng Năm vất vả không kém trồng lúa, từ khâu trồng, làm cỏ, chăm sóc, tưới nước. Vào ngày mồng 5/5 âm lịch, sau khi cúng xong, nhằm lúc chính Ngọ (12 giờ trưa), trộn các loại lá lại với nhau lá tỏa ra mùi thơm rất dễ chịu, vừa trộn vừa hít hà mùi thơm của lá sẽ sảng khoái vô cùng. Tất cả loại lá được hái trong dịp này được phơi khô, bảo quản kỹ để sử dụng hằng ngày thay chè hoặc trà. Hằng ngày, nồi nước nấu từ lá mùng 5 tổng hợp hương hoa, mùi cây lá thuốc nam, bao gồm cả vị đắng, chát, ngọt hòa quyện vào nhau thơm nồng. Lá mùng 5 sau khi được hái về, sẽ được đem phơi khô, cho vào nhiều bao, để dành uống đến giáp năm Tác dụng lá mùng 5 Làm nước uống giải nhiệt Nhờ vị trí địa lý giáp với các bìa rừng, người dân xứ Quảng dễ dàng tìm kiếm và hái được các loại cây mang vị thuốc, mang về cắt nhỏ, phơi khô, cất dùng cả năm thay các loại trà, chè. Cứ mỗi năm đến dịp Tết Đoan ngọ, họ rất chuộng dùng nước lá mùng 5. Người dân thường sử dụng làm nước uống hằng ngày, công dụng đầu tiên là giải nhiệt, tiêu thực. Lá mùng 5 có thể để tươi nấu nước uống, nhưng ngon hơn vẫn là phơi khô, cắt nhỏ, nấu nước uống như trà. Chữa bệnh Lá mùng 5 là nguồn dược liệu cung cấp cho các cơ sở Đông y. Lá sau khi phơi khô, ngâm với nước chừng 3-4 phút sau đó rửa 2-3 nước nấu uống cả ngày như nước chè. Theo dân gian, nếu phơi lá đúng vào trưa nắng của dịp Tết Đoan Ngọ thì lá sẽ có mùi thơm và phát huy công dụng chữa bệnh nhất. Theo nghiên cứu từ Đông y, lá mùng 5 là tổng hợp từ các loại cây dân dã có tác dụng chữa bệnh, rất tốt cho sức khỏe như: Ngũ gia bì chữa chứng nhức mỏi, đau khớp, đau lưng,... Lá tía tô giải cảm. Lá ngũ gia bì chữa đau khớp, đau lưng. Lá từ bi chữa đau lưng, phù thận, khớp. Lá bạc thau chữa sản hậu, phụ nữ sinh con uống tốt, ăn ngủ được. Hà thủ ô trị rụng tóc, bạc tóc... Nước lá mùng 5 thơm lừng mùi thuốc nam với vị ngọt, đắng, chát hòa quyện Làm nước tắm cho trẻ Những loại lá mùng 5 vừa mát vừa có khả năng trị ngứa cho da trẻ nhỏ, đó là lý do người ta không chỉ dùng để nấu nước uống hoặc tắm cho trẻ nhỏ, vì trong số các loại lá đó có nhiều loại lá có công dụng trị ghẻ ngứa rất hay. Người lớn cũng có thể tắm những loại lá này giúp cơ thể thơm tho, khoan khoái dễ chịu, trị được cảm mạo và xua mầm bệnh. Hoàng Mai

15/10/2024

Văn Công Hoàng: Thướng nhớ lụa Mã Châu

Thương nhớ lụa Mã Châu. Thơ: Lê Anh Dũng. Nhạc và biểu diễn : Văn Công Hoàng. Video: Trần Ngọc Yến

05/03/2024

Thơ Hòa Văn: 𝚇𝙸𝙽 𝙲𝙷Ú𝚃 𝙳Ạ𝙸 𝙺𝙷Ờ


𝙰𝚒 đ𝚒 đ𝚒 𝚖𝚒ế𝚝 𝚔𝚑ô𝚗𝚐 𝚟ề 𝚡ó𝚖

𝙽𝚐ô𝚒 𝚗𝚑à 𝚡ư𝚊 𝚌ũ đổ𝚒 𝚌𝚑ủ 𝚛ồ𝚒

𝙽𝚑ư 𝚖â𝚢 𝚝ứ 𝚝á𝚗 𝚝𝚊𝚗 𝚟à 𝚑ợ𝚙

Đấ𝚝 𝚖ẹ 𝚋𝚊𝚘 𝚗ă𝚖 𝚐𝚒𝚊𝚗𝚐 𝚗ắ𝚗𝚐 𝚝𝚛ờ𝚒!


𝙽𝚐𝚑𝚎 𝚖ư𝚊 𝚛ả 𝚛í𝚌𝚑 𝚟𝚞𝚒 𝚌ù𝚗𝚐 𝚗ướ𝚌

𝙽𝚑ớ 𝚝𝚑𝚞ở 𝚌ở𝚒 𝚝𝚛𝚞ồ𝚗𝚐 𝚌𝚑ạ𝚢 𝚚𝚞𝚊𝚗𝚑 𝚜â𝚗

𝙲ô 𝚋é 𝚗𝚑à 𝚋ê𝚗 𝚕𝚎𝚗 𝚕é𝚗 𝚝ắ𝚖

Đô𝚒 𝚖ắ𝚝 𝚑ồ𝚗 𝚗𝚑𝚒ê𝚗 𝚐ọ𝚒 𝚋â𝚗𝚐 𝚔𝚑𝚞â𝚗𝚐


𝙻ớ𝚗 𝚕ê𝚗 𝚛𝚊 𝚙𝚑ố 𝚚𝚞ê𝚗 𝚑𝚊𝚢 𝚗𝚑ớ...

𝚇ó𝚖 𝚗𝚑ỏ 𝚛ộ𝚗𝚐 𝚕ò𝚗𝚐 𝚗𝚞ô𝚒 𝚝𝚞ổ𝚒 𝚝𝚑ơ

𝚅ẫ𝚗 𝚋𝚒ế𝚝 𝚝ì𝚗𝚑 𝚢ê𝚞 𝚗𝚊𝚢 đổ𝚒 𝚔𝚑á𝚌

𝚇𝚒𝚗 𝚌𝚑ú𝚝 𝚍ạ𝚒 𝚔𝚑ờ 𝚝𝚛𝚘𝚗𝚐 𝚐𝚒ấ𝚌 𝚖ơ!.


𝙷Ò𝙰 𝚅Ă𝙽

04/01/2024

 


Quảng Nam có nhiều món mắm cho dù mang nó đến bất kể vùng miền nào

không lẫn vào đâu được. Đó là nắm cá cơm than, mắm cá nục, mắm cá thính...
Tính đặc trưng của từng loại đã thành đặc sản, đến nay ai cũng biết, nếu không
nói là đã từng thưởng thức và tấm tắc khen ngon.

Ở đây xin giới thiệu một món ăn, một thời có mặt tại làng Xuân Đài (nay thuộc xã Điện Quang, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).
Một dịp đến thăm bác Văn Đức Đổng (năm 2012 đã trên 80 tuổi), người làng Xuân Đài, trong buổi trò chuyện, bác nhắc đến thân mẫu của bác về tài chế biến các món ăn dân dã và phù hợp với đồng tiền bát gạo ở nông thôn những năm 1940 – 1965. Một trong món ăn mà bác nói ngon, ngon lắm là Mắm cá chuồn bột.

Độ khoảng tháng Ba âm lịch, khi con tu hú kêu rân tu hú tu hú... đó là báo hiệu mùa cá chuồn đang rộ.
Biển cửa Đợi, Hội An nơi từ lâu nổi tiếng luôn luôn có nhiều loại cá biển mà lúc nào cũng tươi và ngon như cá ngừ, cá nục, cá thu, cá sòng, cá chuồn... Lúc nầy dù có bận bịu công việc gì, người làng Xuân Đài cũng dàn xếp, rủ nhau mướn ghe bầu đi Cửa Đại mua cả chuồn. Đặc điểm quan trọng cần lưu ý, nếu mua cá chuồn về làm mắm thì có bị ươn cũng không sao, nhưng để làm cá chuồn bột nhất định phải chọn loại cá trộng con và tươi xanh mới được.
Cá chuồn làm ruột rửa sạch, vớt ra để ráo nước, cắt bỏ đầu cá, sau đó bỏ cá vào hũ sành (không được muối vào hũ đất), muối giống như muối cá cơm than hoặc cá nục. Muối dùng là loại muối hạt to, trắng. Nếu có được muối Cà Ná mua để dành vài ba năm, nay đem ra dùng càng tốt vì loại muối cũ nầy để lâu mất dần chất đắng thường có trong muối ăn. chỉ còn vị mặn tinh khiết, muối mắm càng ngon. Lượng muối theo kinh nghiệm (ba cá một muối), cứ một lớp cá vừa vừa không dày không mỏng rải một lớp muối. Việc muối cá phải nhanh gọn để tránh ruồi bâu vào dễ sinh con dòi trong hũ mắm. Cuối cùng dùng miếng vải dày bịt kín miệng hũ lại, xong đem hũ mắm vừa muối ra nơi có nắng cả ngày phơi liên tục suốt ngày đêm khoảng bốn, năm tháng, đến cỡ tháng Chín, tháng Mười âm lịch cùng năm, xử dụng được. Có một công đoạn để có tên mắm cá chuồn bột phải làm trước khi ăn, là dùng đũa vớt hết xương cá chuồn ra, sau đó ấy đũa bản to (thường hay gọi là đũa bếp), khuấy hũ mắm làm cho toàn bộ phần thân cá chuồn tơi nát ra thành bột màu đỏ sậm, đặc sánh.
Trước đó khoảng tháng Năm tháng Sáu tới mùa thơm (dứa) trồng quanh vườn nhà chín rộ, chọn thời điểm trời tạnh ráo, chọn những quả dứa ngon, gọt sạch vỏ, cắt ra từng khoanh dày độ ba phân, xâu lại thành từng xâu, đem treo phơi nắng tốt cho khô. Đây là phụ gia để bỏ vào hũ mắm cá bột thành phẩm, làm cho mắm dịu bớt độ mặn thêm ngon ngọt, những khoanh thơm ấy
sau khi thấm thóp mắm ăn ngon đáo để.
Khi kể chuyện làm mắm cá chuôn bột. Hai mắt bác Đổng mãi chớp chớp như chực khóc. Bác nói: “Kể chuyện muối mắm tôi nhớ mẹ tôi quá quý anh ạ!”. Còn những người ngồi nghe chuyện, lại chim chíp miệng. Tôi nói chen vào: "Nghe bác Đổng diễn tả cách làm mắm cá chuộn bột, thật công phu và tỉ mỉ, ai cũng phát thèm!”. Bác Đổng kết luận, những ngày mùa đông giá lạnh, những khi không đi chợ, lúc bão lụt, đến bữa cơm, dùng giá múc mắm cá bột vào chén thêm gia vị tỏi, ớt, mắm có hương vị rất thơm. Khi ăn mỗi người tự dùng đũa quẹt từng quẹt mắm nho nhỏ cho vào chén cơm nóng hổi, mà ăn thật ngon.

Ngoài ra khi cuốn bánh tráng thịt heo, bánh xèo (đặc sản Quảng Nam), mắm
cá chuồn bột được pha chế thêm một ít nước mắm nhỉ, trở thành nước chấm ngon khỏi chê!
Nếu làm đúng cách, hợp vệ sinh mắm cá chuồn bột có thể để dành ăn quanh năm.

Hòa Văn
(2012)
-----
Ảnh: Hòa Văn và Bác Văn Đức Đổng (bìa phải)

31/12/2023

CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2024


Ý

𝙻à𝚖 𝚝𝚑ơ 𝚔𝚑ô𝚗𝚐 𝚌𝚑ỉ 𝚝ỏ 𝚋à𝚢
𝚅𝚒ế𝚝 𝚟ă𝚗 𝚔𝚑ô𝚗𝚐 để 𝚗𝚐à𝚢 𝚜𝚊𝚞 𝚕𝚞ậ𝚗 𝚋à𝚗
𝚃𝚛ó𝚝 𝚖𝚊𝚗𝚐 𝚋𝚊 𝚌𝚑ữ 𝚜à𝚗 𝚜à𝚗.
𝚇𝚒𝚗 𝚕à 𝚑ơ𝚒 𝚝𝚑ở 𝚗ồ𝚗𝚐 𝚗à𝚗 𝚝𝚑ươ𝚗𝚐 𝚢ê𝚞
𝚃𝚑ơ 𝚟ă𝚗 𝚝𝚑𝚊 𝚝𝚑𝚒ế𝚝 𝚖ộ𝚝 đ𝚒ề𝚞
𝙼𝚘𝚗𝚐 𝚕ò𝚗𝚐 𝙽𝚑â𝚗 𝙽𝚐𝚑ĩ𝚊 í𝚝 𝚗𝚑𝚒ề𝚞 𝚝𝚛𝚊𝚘 𝚗𝚑𝚊𝚞.

𝙷Ò𝙰 𝚅Ă𝙽
1/1/2024

 

30/12/2023

Thơ Nguyễn Văn Gia: LÊN CHÙA

 


Nhà thơ Nguyễn Văn Gia

MANG GƯƠM

Xa lắc rồi
niết bàn
Buổi thiền sư
mang gươm
Vô thường
bỗng bất thường
Niệm niệm
tâm bất an.

LÊN CHÙA

Lên chùa tìm chút thảnh thơi
Ai dè
chùa cũng như… đời ngoài kia
Cũng thứ hạng
cũng phân chia
Chỗ này vô nhiễm
chỗ kia thị trường
Đành rằng tất cả vô thường
Thôi ta về lại phố phường
ẩn tu.

Ở MỘT NƠI
CHÙA KHÔNG CÓ PHẬT


Đã hơn hai nghìn năm trăm năm
Mắt Đức Phật vẫn khép hờ
với nụ cười bí ẩn
Thượng sầu hạ hỉ
Sao niềm vui trốn biệt nơi đâu…

Trong nhà đầy báu vật (1)
Chẳng cần tìm đâu xa
Đừng mất công tìm Phật
Thế Tôn tại lòng ta

Chùa xây trăm nghìn tỷ
Tượng ngọc tượng vàng
Võng lọng xa hoa…
Những thứ mà Thái tử Tất-đạt-đa
đã ngày xưa từ bỏ
Đã lâu không đến chùa
Bởi lòng kính ngưỡng tăng ni nhạt phai
Lòng tin bị đánh tráo
Không còn ngồi dưới hiên chùa xưa
Bình yên ngắm đám mây trôi
Lòng ngậm ngùi cái lẽ vô thường của đất trời
Tai không còn nghe
tiếng chuông sớm chuông chiều
ngân nga hồn dân tộc…

Lên chùa
với nén tâm nhang
Tam quan mách bảo
Phật đang vắng nhà
Trở về phụng dưỡng mẹ cha
Dẫu không thờ Phật
cũng là quy y

Chốn thanh tịnh trang nghiêm
Ai bày ra ồn ào lễ hội
Cầu lợi cầu danh
Buôn thần bán thánh
Chẳng thấy đâu các bậc chân tu
Chỉ thấy tràn lan những thầy bói thầy cúng
Rộn rịp dâng sao giải hạn
Thỉnh vong oan gia trái chủ
Xưa “Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật” (2)
Nay bọn giả sư hành tung như thảo khấu

Mắt Đức Phật vẫn khép hờ
với nụ cười bí ẩn
Hơn hai ngàn năm trăm năm
Giữa muôn trùng vây
và vô vàn kiếp nạn
Nơi góc biển đầu non
Vẫn sáng soi
vầng trăng chánh pháp
Những bậc chân tu ẩn mình đâu đó
Không đủ phước duyên chẳng dễ gì gặp được
Buồn thay!

Nguyễn Văn Gia
_____
(1) “Gia trung hữu fbảo hưu tầm mịch” (Trần Nhân Tông)
(2) “Buông con dao đồ tể xuống, đứng ngay đó mà thành Phật"

26/12/2023

Thơ Hòa Văn: TRÙNG KHƠI

 



𝙱𝚒ể𝚗 𝚡𝚊 𝚛𝚞 𝚖ã𝚒 𝚕ờ𝚒 𝚝𝚑ươ𝚗𝚐

𝚈ê𝚞 𝚊𝚒 𝚋ỏ 𝚡ứ 𝚟ề 𝚟ươ𝚗𝚐 𝚌á𝚝 𝚖ề𝚖


𝚃ơ 𝚝𝚛ờ𝚒 𝚝ừ𝚗𝚐 𝚐𝚒ọ𝚝 𝚜ươ𝚗𝚐 đê𝚖

𝚃𝚛ă𝚗𝚐 𝚖ờ 𝚜ó𝚗𝚐 𝚍ộ𝚒 𝚖ộ𝚝 𝚖𝚒ề𝚗 𝚗𝚑ớ 𝚗𝚑𝚞𝚗𝚐


𝙷ỏ𝚒 𝚖ê𝚗𝚑 𝚖ô𝚗𝚐 ơ𝚒 𝚕ạ𝚗𝚑 𝚕ù𝚗𝚐

𝚃𝚛ă𝚖 𝚗ă𝚖 𝚖𝚞ố𝚒 𝚖ặ𝚗 𝚝𝚛ù𝚗𝚐 𝚙𝚑ù𝚗𝚐 𝚋𝚒ể𝚗 𝚔𝚑ơ𝚒...


𝙼ộ𝚝 đờ𝚒 𝚟ơ𝚒 đầ𝚢, đầ𝚢 𝚟ơ𝚒

𝙺𝚑ô𝚗𝚐 𝚡𝚊 𝚗𝚐𝚞ồ𝚗 𝚌ộ𝚒 𝚕à 𝚗ơ𝚒 𝚝ì𝚖 𝚟ề !.

Hòa Văn