PHẠM HẦU
VỌNG HẢI ĐÀIChẳng biết trong lòng ghé những ai
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
Một phút dừng chân vọng hải đài
Cơn gió nào lên có một chiều
Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
Tháng ngày đi rước tương tư lại
Làm rã chân thành sắp sửa xiêu
Trống trải trên đài du khách qua
Mây ngày vơ vẩn, gió đêm là
Muôn đời e hãy còn vương vấn
Một sắc không bờ trên biển xa
Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai
Rạng đông về thức giấc hoa lài
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có nhũng ai?
P.H
-------------------
Ngô Minh
Viếng thi sĩ Phạm Hầu
Mai Văn Hoan, Thanh Tùng và NM trước mộ thi sĩ Phạm Hầu
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai ?
(Vọng Hải Đài- Phạm Hầu)
Góc nhân gian u hoài ai biết
Thi sĩ nằm như lá như sương
Chuông chùa Vạn Phước hằng đêm gọi
70 năm người lạc chốn xa lòng
Tôi men khói hương tìm viếng mộ
Chén rượu còn đủ ấm tái tê ?
Người ơi người khôn thiêng có biết
Câu thơ xưa còn ấm cõi đi về
Thi sĩ lạc loài như nước mắt
biền biệt quê hương mưa Huế gọi buồn
Trong đày ải mình trần tê ngọn lửa
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn (*)
Câu thơ sóng vỗ ngoài vô tận
Ươm cây đời đơm lộc giữa tim xanh
Người xa lòng làm sao quên được
Vẫn gọi về muôn vạn tri âm…
Huế, Xuân Giáp Ngọ, 2014
---------------
(*): Thơ Phạm Hầu
* Theo Blog ngominh
--------------
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Phạm Hầu (2 tháng 3 năm 1920 – 3 tháng 1 năm 1944) hay Phạm Hữu Hầu (tên ghi trong gia phả) là nhà thơ tiền chiến Việt Nam sinh ở Gò Nổi, làng
Trừng Giang, (nay thôn Hòa Giang, xã Điện Trung – H.V ghi thêm), huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Ông là con Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải đến chức Tổng
đốc Nghệ
An rồi Thượng thư Bộ binh dưới các triều vua Thành
Thái, Duy
Tân, Khải Định và Bảo
Đại. Mẹ ông là bà Lê Thị Giảng, người Thanh Hoá.
Lúc nhỏ, ông học trường Quốc Học Huế, sau
ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc
Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới (Quảng
Bình) - Huế,
thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng
1 năm 1944.
Kể về chuyến trở về của Phạm Hầu, sách Việt Nam thi nhân tiền chiến
(Quyển 2) viết: (Phát giác ông mất), người soát vé bắt buộc người thân đi
theo phải đem xác ông xuống ga Truồi (Huế). Từ nơi đó,
người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế rồi an táng trên một đồi nhỏ, sau một ngôi
chùa cổ ở vùng Nam Giao. Và để tiễn biệt một linh hồn cô đơn đi vào nơi yên
nghỉ cuối cùng, người ta chỉ nghe đôi câu kinh, vài tiếng thút thít trong một
chiều mưa gió thê lương...[1]
Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2), về hội họa, ông đã được
tặng thưởng trong kỳ triển lãm hội họa tại Tokyo (Nhật
Bản); về thơ, ông làm không nhiều (vỏn vẹn chỉ có khoảng 20 bài), thường
đăng thơ trên các tạp chí Tao Đàn, Mùa gặt mới, Bạn đường...[1]
Năm 2001, nhà
xuất bản Thanh Niên đã cho xuất bản thơ ông, tập thơ có tên Vẫy ngoài vô tận
do Hoàng Minh Nhân biên soạn.
Quan niệm nghệ thuật
Trích bài viết của Phạm Hầu, được dẫn lại trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):“Nếu một họa sĩ vẽ cô gái đẹp ấy y như thật, thì chỉ là thợ truyền thần giỏi mà thôi. Vì nhà truyền thần kia đi theo cảnh vật, làm nô lệ cảnh vật. Họ không phải là một nhà tư tưởng, một nhà sáng tạo. Mà trong địa hạt nghệ thuật, chỉ có sáng tạo mới là cái đẹp chân chính”.
“Cái quan niệm cho Nghệ thuật là một trò chơi không thể được nữa. Nhà nghệ sĩ không phải là một đứa trẻ vô tư trong trò chơi. Nghệ sĩ không thể không đau khổ, nhưng cái đau khổ ấy không phải là một thất vọng. Bởi đấy chính là một công việc giải phẫu mà nghệ sĩ phải chịu để cho ra đời một tác phẩm”.
“...Ở đời có những người nói to
bước vững. Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời Phạm Hầu là một
cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và
con người ta tưởng không có gì là một người giàu vô vạn. Lòng người là một vọng
hải đài, người chỉ việc đứng trên đài lòng mà ngắm: "Qua lại thiếu gì mây
sớm gió chiều...”
Trích trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):
“Có thể nói, Phạm Hầu là hình
ảnh kết tinh của một tâm hồn thơ và lòng yêu chuộng nghệ thuật. Tuy thơ ông rất
ít, nhưng không thể lấy số lượng đánh giá trị thi nhân...Vì bài nào của ông
cũng đều có một chiều sâu và chứa đựng một triết lý nhân sinh.
...Là một nghệ sĩ, tâm hồn ông
thường hay rung cảm một cách bén nhạy...Mới chỉ trong cái tuổi đôi mươi mà ông
đã quyết định mang theo bên mình một hoài bảo to lớn. Đấy là một cứu cánh toàn
hảo, một tuyệt đích tình yêu, một tột cùng của nghệ thuật; nói gọn, đấy là cái
Chân, Thiện, Mỹ vậy. Và có lẽ ít có người nghệ sĩ nào quá trân trọng bóng thiều
quang như ông. Với ông, thời gian của kiếp đời mình cũng như vò nước. Từng
giọt, từng giọt nhỏ dần…cho nên thi nhân không dám phung phí, luôn tự thúc giục
mình trong công việc sáng tạo, để có thể lưu lại một cái gì trước tuổi 30.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét